Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại, là hiện thân sáng ngời của đạo đức dân tộc Việt Nam được kết tinh, lưu truyền và phát huy suốt mấy ngàn năm lịch sử. Bằng cuộc đời cách mạng gắn bó với Tổ quốc và nhân dân, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta những giá trị tư tưởng to lớn.
Đến với học thuyết Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những gì tinh túy nhất của phương pháp duy vật biện chứng để vận dụng vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó đã làm nên những phong cách với những đặc trưng riêng, độc đáo, đặc sắc có tính hệ thống, ổn định của Người. Trong đó có tư tưởng về phong cách, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong cách của cán bộ là một chỉnh thể bắt đầu từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến hoạt động thực tiễn (phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử) và cuối cùng là phong cách trong sinh hoạt đời thường.
Năm 2019 là năm chúng ta kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Người (1969 - 2019); 70 năm Bác viết tác phẩm Dân vận (1949 - 2019) và 50 năm Bác viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969 - 2019). Thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong bài viết này, với sự hiểu biết hạn hẹp của bản thân và vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người vào công việc, cũng như cuộc sống hàng ngày, chúng tôi xin được tổng hợp và chia sẻ những nhận thức của bản thân khi học tập và làm theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1. Quan niệm về phong cách, tác phong công tác của cán bộ, đảng viênPhong cách và tác phong là hai khái niệm thường đi đôi với nhau. Phong cách có hàm nghĩa rộng hơn, thể hiện những cung cách, cách thức hành xử của một người hay một nhóm người, được thể hiện nhất quán trong lao động, học tập, sinh hoạt, tạo nên cái riêng của họ, phân biệt họ với những người khác. Phong cách hình thành trên cơ sở những yếu tố về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tài năng, sở trường, khí chất… Tác phong mang hàm nghĩa cụ thể hơn so với phong cách. Có thể hiểu tác phong là sự thể hiện ra bên ngoài của phong cách, tạo thành lề lối làm việc, thói quen ứng xử, nề nếp sinh hoạt... Trong bài viết này, chúng tôi sẽ sử dụng nhất quán khái niệm “phong cách Hồ Chí Minh” với cả hai hàm nghĩa của “phong cách” và “tác phong”; sử dụng khái niệm “phong cách làm việc” để nói về phong cách, tác phong công tác trong công việc của người cán bộ, đảng viên.
Phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn riêng của Người, gắn liền với tư tưởng, đạo đức, lối sống, mục đích sống của Người; vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực; thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức, thẩm mỹ; là tấm gương sáng cho mọi người, mọi thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo.
Khi còn nhỏ, Hồ Chí Minh đã sớm định hình một phong cách nền nếp, ngăn nắp, cần mẫn. Những năm tháng bôn ba ở nước ngoài, lăn lộn với cuộc sống của người lao động, hòa mình trong phong trào công nhân đã hình thành ở Người một phong cách làm việc khoa học, quý trọng thời gian và sắp xếp công việc hàng ngày một cách cụ thể, hợp lý. Những trải nghiệm cùng với những tác động và ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa phương Đông và phương Tây mà người đã tiếp nhận trong những năm tháng hoạt động cách mạng đã hình thành trong con người Chủ tịch Hồ Chí Minh một phong cách làm việc đặc trưng, được thể hiện đậm nét và sâu sắc. Có thể nói một cách rất khái quát về phong cách làm việc Hồ Chí Minh, đó là lề lối, cung cách, cách thức làm việc dân chủ, quần chúng, khoa học, nêu gương.
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là những bài học quý báu đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
2. Xây dựng phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí MinhCán bộ và công tác cán bộ luôn là nhân tố đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Theo Người, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc. “Gốc” là từ đó sinh ra. Cây thì phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Gốc có vững thì cây mới bền. Như vậy, cây vừa phải có gốc vừa phải gốc vững. Công việc cách mạng phải có cán bộ và cán bộ phải tốt. Người khẳng định: “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Cán bộ còn được coi là cái “dây chuyền” của bộ máy, là cầu nối “giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân nhưng không phải là “cầu nối” cơ học mà là một “dây chuyền”, một “cầu nối” đặc biệt.
Do đó, “cán bộ quyết định mọi việc... Công việc thành hay bại một phần lớn là do nơi tư tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí”.
Như thế, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng phong cách làm việc của người cán bộ, đảng viên, cần tập trung vào những nội dung sau:
2.1. Phong cách dân chủ, quần chúngChủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Người chỉ rõ: Đảng ta thực hiện “Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các cơ quan nhà nước trong chế độ ta” và “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do”. Vì thế, người cán bộ, đảng viên phải tạo ra được không khí dân chủ thực sự trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Được như vậy thì cấp dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến, “học hỏi sáng kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng”. Những sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những người có sáng kiến càng thêm hăng hái làm việc. Do đó, phong cách dân chủ của người cán bộ không chỉ khơi nguồn sáng tạo, phát huy tinh thần cống hiến của cấp dưới và quần chúng nhân dân mà còn làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm gắn bó.
Người có phong cách dân chủ là thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, cũng là cách “để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người”. Cán bộ, đảng viên không bao giờ được “độc tôn chân lý”, phải thành thực lắng nghe ý kiến phê bình và nghiêm túc sửa mình với tinh thần cầu thị; phải sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi mặt đời sống nhân dân; tin yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình. Làm như vậy thì chắc chắn người cán bộ, đảng viên sẽ được nhân dân yêu mến.
Phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng là “tập trung dân chủ”. Nói về sức mạnh của dân chủ, Hồ Chí Minh từng nói: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”.
Gắn bó mật thiết với phong cách dân chủ là phong cách quần chúng. Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có phong cách làm việc quần chúng, xuất phát từ vấn đề có tính nguyên tắc về vai trò của quần chúng nhân dân: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Phong cách quần chúng yêu cầu người cán bộ phải gần gũi, lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng. Người cán bộ phải thường xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, tìm hiểu thực trạng đời sống, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Người khẳng định: nếu “cách xa dân chúng, không liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.
Phong cách quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng”, vì theo Hồ Chí Minh, “Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau”. Người cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí của quần chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận quần chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.
Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh là phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với trình độ, năng lực thực tế của quần chúng, không chủ quan, duy ý chí, áp đặt thực tiễn theo ý mình. Theo Người, “nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… Ai cũng đóng giầy theo chân. Không ai đóng chân theo giầy”. Người khẳng định: “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo,... của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”, “dựa vào lực lượng quần chúng”.
Phong cách quần chúng của cán bộ, đảng viên còn thể hiện rõ trong các thói quen sinh hoạt hàng ngày. Người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Khi người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.
2.2. Phong cách khoa họcPhong cách làm việc khoa học đòi hỏi khi xem xét và quyết định mọi việc đều phải điều tra, nghiên cứu, phân tích toàn diện, phải tôn trọng quy trình ra quyết định, tranh thủ ý kiến của tập thể lãnh đạo và quần chúng. Người chỉ rõ: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: vì sao có vấn đề này? xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”. Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận rồi mới quyết định và thực hiện đến nơi, đến chốn. Đặc biệt, đối với những vấn đề mới, phức tạp có ảnh hưởng lớn tới tổ chức đảng, đơn vị, bộ đội và nhân dân, cần phải làm thử, làm điểm trước khi quyết định. Tuyệt đối không ra quyết định khi chưa có thông tin đầy đủ, chưa có phương án hiệu quả. Tránh chủ quan duy ý chí, che giấu khuyết điểm để chạy theo thành tích.
Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh là làm việc phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực. Muốn có kế hoạch khoa học thì người cán bộ phải “Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy”. Hết sức tránh chuyện vạch ra “Chương trình công tác thì quá rộng mà kém thiết thực” và căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí tiền của, nhân lực và thời gian của nhân dân.
Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Người từng nói: “Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải, của cải hết còn có thể làm thêm khi thời gian đã qua rồi không bao giờ kéo lại được.... Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc;” Không nên “nay lần mai lữa” không ôm đồm, làm quá nhiều việc, nhiều việc không dứt điểm, không hiệu quả. Người giải thích: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”.
Phong cách làm việc khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu khách quan, dựa trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và phương án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài. Không được rơi vào “Bệnh cận thị - không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”. Người cán bộ không được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to lớn, lâu dài. Tầm nhìn - đó chính là phẩm chất của người có tư duy khoa học và có cách làm việc khoa học.
Theo Hồ Chí Minh, phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ phải có cách đánh giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý; lại phải biết cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua đó thấy được việc thi hành đường lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần điều chỉnh cái gì…Người nói: “tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế”. Kiểm tra còn có tác dụng phân loại, đánh giá cán bộ, vì “Có kiểm tra… mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”. Cán bộ lãnh đạo làm việc khoa học, chặt chẽ thì cấp dưới không thể “qua mặt”.
Phong cách khoa học đòi hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút ra kinh nghiệm cho lần sau và cho người khác. Hồ Chí Minh viết: “công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”.
2.3. Phong cách nêu gươngTheo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói phải đi đôi với làm. Người yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên đều phải nêu gương về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, cán bộ “gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”.
Về vai trò của nêu gương, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Tự mình phải chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cách mạng chủ yếu, là nhân cách của con người. Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời,
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một nội dung cơ bản không thể thiếu trong phong cách làm việc và nhân cách của những người lãnh đạo, quản lý. Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn tất cả các cán bộ, đảng viên: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, kẻ thù của lòng chí công vô tư chính là chủ nghĩa cá nhân, chỉ thấy lợi ích riêng của mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, chỉ muốn tự tư tự lợi. Phải khắc phục chủ nghĩa cá nhân có trong mỗi người cán bộ đảng viên thì mới có thể có phong cách làm việc cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là cơ sở để hình thành hành vi đạo đức đúng đắn, một tâm hồn hướng thượng: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”.
Cần nêu gương trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, đặt việc công lên trên, lên trước việc tư.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm. Đó không chỉ là một chuẩn mực trong đạo đức truyền thống mà còn là chuẩn mực đạo đức công vụ tối thiểu. Với cán bộ, đảng viên, sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo đức và nêu gương đạo đức cần đạt tới sự nhất quán trong công việc và trong đời sống riêng, giữa đạo đức người lãnh đạo và đạo đức đời thường. Địa vị càng cao, uy tín càng lớn, càng phải ra sức hoàn thiện về đạo đức, thống nhất giữa nói và làm. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo.
Việc nói đi đôi với làm mang lại cho quần chúng lòng tin và sự tôn trọng đối với người cán bộ, do đó, người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của mình. Người phê phán những cán bộ “Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”. Nhân dân không bao giờ tin cậy những cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đàng làm một nẻo. Muốn rèn luyện được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải thường xuyên tự kiểm điểm, soi xét chính mình, đồng thời phải khuyến khích cấp dưới và quần chúng nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về những điều mình đã hứa. Người cán bộ cũng phải biết tránh căn bệnh hình thức, bệnh “hữu danh, vô thực”, chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài.
Trong gia đình, cha mẹ phải là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em. Trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò. Trong cơ quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, làm tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó mà nói theo, qua đó mà làm tăng thêm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
Trong các nội dung nêu gương, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nêu gương về tinh thần phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ra mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Vì vậy mà cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm.
Để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Hồ Chí Minh chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Người khẳng định: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có.Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”. Tháng 6-1968, Người chỉ đạo xuất bản sách “Người tốt, việc tốt” để mọi người học tập, làm theo, lan tỏa cái tốt, cái đẹp trong xã hội và cho đến hôm nay, chúng ta vẫn học Người để duy trì phương pháp đó.
3. Đẩy mạnh học tập và làm theo phong cách làm việc của Hồ Chí Minh trong đội ngũ nhà giáoSự nghiệp giáo dục đào tạo là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội nhưng người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ là nhà giáo. Theo Hồ Chủ tịch, vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục chính là đội ngũ những người thầy giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Giáo viên có nhiệm vụ nặng nề là đào tạo cán bộ cho nước nhà, là “người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa” giáo viên có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục…không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa”. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, Người cũng đòi hỏi “thầy giáo xứng đáng là thầy giáo”, xứng đáng với danh hiệu “Người kỹ sư tâm hồn”.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ xin tham góp một số ý kiến về đơn vị Trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn (CĐSP), cũng như nghĩa vụ và trách nhiệm của cá nhân mỗi giảng viên nhà trường.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của giáo dục và vị trí của giáo viên - người quyết định chất lượng đào tạo, Trường CĐSP cần tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên và coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Bổ sung và hoàn thiện bộ tiêu chí cụ thể về tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên của nhà trường; đa dạng hóa các hình thức động viên, khuyến khích trong việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng.
Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường nên duy trì việc nghiên cứu thực tiễn và đề ra những biện pháp để giáo dục các hành vi chưa chuẩn mực của cán bộ, giáo viên, nhân viên; thực hiện nêu gương, khen thưởng kịp thời những cán bộ, giảng viên làm tốt công việc theo chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Đồng thời, tạo điều kiện để giảng viên có thời gian nghiên cứu, học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Nỗ lực hơn nữa trong công tác xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh trong môi trường sư phạm, giao tiếp, ứng xử với đồng chí, đồng nghiệp. Coi trọng bồi dưỡng ý chí, khát vọng và chí hướng vươn lên hoàn thiện văn hoá sư phạm, luôn tự học để có hiểu biết sâu rộng về chuyên môn, nghiệp vụ, thuần thục kỹ năng, điêu luyện tay nghề, trau dồi phẩm chất đạo đức nhà giáo để cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Nâng cao khả năng tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá, giáo dục của nhân loại và hội nhập nhanh với nền giáo dục hiện đại của thế giới, có tinh thần đổi mới và kiên định trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Đối với cá nhân giáo viên, mỗi người cần đặt mình vào vai trò, vị trí công việc để tu dưỡng và rèn luyện.
Trước hết, là công dân nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, mỗi người phải sống và làm việc theo Đường lối, chính sách của Đảng, hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, là cán bộ, đảng viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục, mỗi giáo viên phải tự ý thức và bắt đầu từ việc xác định mô hình nhân cách nghề nghiệp cho bản thân. Nghĩa là phải hội tụ đủ 03 chức năng chính: nhà giáo, nhà khoa học, nhà cung ứng dịch vụ. Nghĩa là phải phát triển toàn diện về trí tuệ, ý chí, năng lực đạo đức, năng lực tự học, sáng tạo, có ý thức kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng thích ứng và nhanh chóng tạo thế chủ động trong môi trường sống và làm việc; Hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết về thái độ nghề nghiệp, khả năng ứng xử (đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong làm việc, kỉ luật lao động, tinh thần trách nhiệm, khiêm tốn, giản dị, mẫu mực trong hành vi ứng xử với tư cách là nhà sư phạm...) đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với người lao động trong xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Có ý thức học tập và rèn luyện nâng cao các năng lực cốt lõi của người giảng viên sư phạm; Có ý thức rèn luyện thể lực tốt đáp ứng mọi công việc, nhiệm vụ được giao phó.
Thứ ba, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, không kéo bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ; Luôn có ý thức coi trọng tự phê bình và phê bình. Luôn phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân. Luôn động viên những người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức, lối sống, xây dựng gia đình văn hoá.
Như vậy, ngoài việc xác định “Đức” và “Tài” là hai phạm trù cơ bản và then chốt nhất, mỗi cán bộ, đảng viên cũng cần nêu cao tính thống nhất những giá trị về văn hóa - tinh thần trong tập thể sư phạm nhà trường.
Là những thầy giáo, cô giáo của Trường CĐSP, nơi thực hiện nhiệm vụ chính trị là đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các cấp cho tỉnh nhà, đặc biệt là ở thời điểm tiếp tục thực hiện “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương tương tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Thiết nghĩ, để xứng đáng là “người thầy” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi một thầy giáo, cô giáo cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc, toàn diện hơn những lời dạy quý báu của Người: “Người huấn luyện phải học tập mãi thì mới làm tốt được công việc của mình…”, có như vậy mới xứng đáng là “người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa”.
Tựu chung, học tập và phát huy những giá trị tốt đẹp của phong cách Hồ Chí Minh trong thời đại mới đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng đạo đức cách mạng, xác định đúng vai trò của người cán bộ, đảng viên là “công bộc của dân”. Với phương hướng đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực thay đổi thói quen và tư duy cũ, hình thành phong cách làm việc mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc của bản thân, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Tài liệu tham khảo: 1. Ban Tuyên giáo Trung ương.
Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (Tài liệu sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị năm 2018). NxB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2018.
2. Học viện Chính trị Quốc gia.
Giáo trình Trung cấp lí luận chính trị - hành chính: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2018.
3. Hoàng Chí Bảo.
Nói chuyện chuyên đề năm 2018 “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” tại Đảng bộ Khối CCQ tỉnh Lạng Sơn. Tìm được từ đường link:
http://duk.langson.gov.vn/Default.aspx?siteid=1&c=content&a=detail&catid=4&id=195http://duk.langson.gov.vn/Default.aspx?siteid=1&c=content&a=detail&catid=4&id=1964. Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Hữu Đảng, Trần Ngọc Linh, Lương Văn Phú (Sưu tầm và tuyển chọn). Kể chuyện Bác Hồ - tập 1,2,3,4,5. Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2014.
5. Phạm Văn Đồng.
Hồ Chí Minh - Một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.
6. Trần Thị Ngân (Sưu tầm, tuyển chọn). Bác Hồ với nghề giáo. Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, 2013.