Bước đầu khảo sát motif loạn luân trong truyện kể dân gian Việt Nam Tóm tắt:
Motif loạn luân là một trong những motif khá phổ biến trong truyện kể dân gian Việt Nam. Nó được xem như một công thức nghệ thuật đặc sắc, có vai trò quan trọng trong toàn bộ kết cấu type truyện, góp phần thể hiện một cách nhìn sâu sắc của dân gian về thời kì hôn nhân huyết thống trong lịch sử quá vãng. Trong bài viết, tác giả xây dựng khái niệm công cụ “motif loạn luân” và trình bày những kết quả bước đầu khảo sát về motif này trong truyện kể dân gian Việt Nam.
The initial results of the Incest Motif in Vietnamese folk stories: Incest is one of the common motifs within Vietnamese folk stories. The motif is considered a great art formula which plays a crucial role in the whole structure of the story type and contributes in to true and lively “bloodline marriages” in the past. The author builds a new tool concept “incest motif” and presents the initial results on it, in Vietnamese folk stories.
Nghiên cứu văn học dân gian theo hướng tiếp cận từ góc độ type và motif từ lâu đã trở thành một trong những khuynh hướng nghiên cứu khả dụng trong việc bóc tách, lý giải những tầng bậc cấu trúc trong chỉnh thể của tác phẩm tự sự dân gian. Ở nước ta, hướng nghiên cứu này đã gặt hái nhiều thành công nhất định trong thời gian qua.
Vấn đề motif loạn luân trong truyện kể dân gian ở Việt Nam và thế giới trong những năm gần đây tuy đã được lưu ý, đặt ra nhưng có thể nói nó vẫn còn ở phạm vi một tác phẩm xác định hay một số tác phẩm nằm trong cùng hệ thống thể loại, chứ chưa trở thành một đối tượng nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu một cách chính thức, hoàn chỉnh.
Do khuôn khổ, bài viết này chỉ trình bày những kết quả bước đầu khảo sát về motif loạn luân trong truyện kể dân gian với tư cách như một đối tượng nghiên cứu hoàn chỉnh. Đó cũng là cơ sở khoa học để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu với sự kỳ vọng về một bức tranh tổng thể mang tính hệ thống của motif này trong truyện kể dân gian mà hiện nay vẫn còn đang bỏ ngỏ.
1. Khái niệm motif loạn luân
Trong nghi lễ vòng đời, hôn nhân vẫn được xem là một nghi lễ quen thuộc và có ý nghĩa nhất trong cuộc đời mỗi người. Nó không chỉ đánh dấu mốc trưởng thành của đời người mà còn mang theo khúc ca bất diệt về sự “tái tạo” và duy trì nòi giống. Hiện thực của đời sống hôn nhân đã vẽ nên bức tranh muôn màu muôn vẻ và tôn vinh đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc qua nhiều chuyện kể được lưu truyền ở các vùng miền cho đến tận ngày nay.
Ngược dòng thời gian, trở về cái thuở “cá cua chưa thấy mặt người”, chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra bức tranh toàn cảnh về các hình thức từ hôn nhân hồn tạp đến hôn nhân huyết thống của buối bình minh của loài người; từ hôn nhân ngoại tộc đến hôn nhân từng cặp riêng rẽ; từ hôn nhân một vợ một chồng đến hôn nhân “đa thê thiếp”; từ môn đăng hộ đối đến trai tài gái sắc... Trong số đó, hình thức hôn nhân huyết thống - loạn luân với tư cách là motif nổi bật.
Motif chính là phần tử đơn vị cấu tạo lên cốt truyện (đơn vị của type). Trong trường hợp truyện có một motif thì motif đó được xem như type. Trong truyện kể dân gian, type là những cốt kể độc lập. Vì thế, truyện nào được kể với một cốt kể độc lập, dù đơn giản chỉ với một motif hay phức tạp khi chứa đựng rất nhiều motif đều được coi là type.
Meletinsky trong quyển Thi pháp của huyền thoại, phần Suy nguyên luận của thực thể xã hội, đã đưa ra nhận xét mang tính đúc kết về sự hình thành xã hội loài người là dựa trên cơ sở vi phạm cấm kỵ về loạn luân. Có nghĩa là sự giằng co giữa hai hình thức hôn nhân nội tộc và ngoại tộc. Một bên muốn giữ cho mình thế ưu thắng trong lợi ích vật chất, phần còn lại là sự cố gắng thoát ra khỏi những cấm kỵ đó. Theo đó, khái niệm loạn luân theo cách hiểu thông thường, tức là cách hiểu thiên về xã hội học hiện đại của thời đại chúng ta được tác giả lưu ý như sau:“...Từ loạn luân ở nghĩa đen, như người thời nay hiểu, là có quan hệ tình dục hat kết hôn giữa bố mẹ và con cái, giữa các chị em ruột, nghĩa là loạn luân trong một “tiểu gia đình”, nó hẹp hơn cách hiểu loạn luân trong xã hội kể đại”. [5,262]. Lý giải về hệ thống phân chia họ hàng trong quan niệm của người kể đại, tác giả cho rằng: “Mẹ ở đây không chỉ là mẹ đẻ mà còn bao hàm cả các chị em gái của mẹ hay vợ của các em trai của bố, chị em gái không chỉ là các chị em ruột mà còn là các chị em họ...trong phạm vi bên bố hoặc bên mẹ. Danh sách về họ hàng thân thuộc không nói đến mối quan hệ máu mủ theo cách hiểu hoàn toàn sinh học mà nói đến thuộc tính của một nhóm người nhất định, đến một tầng lớp những người thuộc họ hàng thân thích hay cùng một thuộc tính. Theo một trật tự như vậy, sự loạn luân trên thực tế có nghĩa là sự vi phạm chế độ ngoại hôn (chế độ kết hôn với người ngoài thị tộc) và chính hàng loạt những truyện về mối quan hệ loạn luân giữa các anh trai và em gái ruột hay giữa con trai và mẹ (kiểu huyền thoại Oedipe) đã phản ánh chính sự vi phạm chế độ ngoại hôn này” [5,262].
Do xuất phát từ điểm nhìn của huyền thoại học nên quan điểm của Meletinsky và cách giải thích phân tâm học của Freud (trong Vật tổ và cấm kỵ) gần như không tìm được điểm tương đồng. Meletinsky đã tỏ ra không đồng tình với quan niệm của học giả người Áo. Và, ông phê phán như sau: “Chính vì điều này (sự vi phạm chế độ ngoại hôn - chúng tôi nhấn mạnh) hàm ý rằng sự khởi đầu của xã hội trong huyền thoại còn được hiểu gián tiếp, được sưởi ấm bằng các kiểu quan hệ máu mủ sinh học và không được đối chiếu với cách nghĩ hiện đại, và ở ý nghĩa này, chúng được nhập làm một. Chính vì thế mà thật ra dù có quan hệ với mặc cảm Oedipe theo thuyết Freud thế nào đi chăng nữa (có nghĩa là thừa nhận hay không thừa nhận nhóm truyện đó như là sự lặp lại một cách bệnh hoạn tình dục trẻ em), thì quan niệm thuần túy mang tính sinh học về nguồn gốc thực thể xã hội trong cuốn Vật tổ và cấm kỵ không thể được coi là thỏa đáng” [5,262].
Như vậy, trên cơ sở tiếp thu quan niệm của Meletinsky, chúng tôi hiểu khái niệm loạn luân trong truyện kể dân gian như sau: Motif loạn luân là motif có chứa các tình tiết quan hệ xác thịt hay hôn nhân giữa những người có quan hệ huyết thống trực hệ (cha mẹ với con cái), hay đồng hệ (anh em ruột với nhau), hay những người có quan hệ họ hàng gần gũi bên cha hoặc mẹ (cô, chú, dì, dượng, cậu, mợ...).
2. Khảo sát motif loạn luân qua tư liệu truyện kể dân gian
2.1. Phạm vi khảo sát: Chúng tôi tiến hành khảo sát motif trên những văn bản truyện kể của người Kinh và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam được tuyển chọn, giới thiệu phổ biến hiện hành. Dĩ nhiên, chúng tôi sẽ trung thành với các tư liệu hiện có.
2.2. Các tiêu chí khảo sát:
- Tiêu chí thể loại: văn bản khảo sát phải là tự sự dân gian (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích…), không nằm ngoài phạm vi khảo sát.
- Tiêu chí nội dung: văn bản khảo sát phải chứa motif loạn luân phù hợp với phần giới thuyết khái niệm của chúng tôi ở phần trên.
- Tiêu chí nhân vật: các nhân vật thuộc motif loạn luân phải là nhân vật chính (NVC), đóng vai trò quyết định trong sự vận hành và kết thúc của truyện.
2.3. Kết quả:
TT | Tên truyện | Dân tộc | MQH loạn luân | Thể loại | Thuộc type |
1 | Bok Kơi Dơi - Bok Sơgor | Ba Na | Anh - em | Thần thoại | Hai vợ chồng khổng lồ khai phá, kiến tạo mặt đất. |
2 | Truyện ông bà trống | Ba Na | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
3 | Hồng Thủy | Ba Na | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
4 | Vợ chồng trời đất | Cao Lan | Anh - em | Thần thoại | Hai vợ chồng khổng lồ khai phá, kiến tạo mặt đất. |
5 | Nguồn gốc loài người | Cơ Tu | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
6 | Dạ dờng (Nước lớn) | Cơ Ho | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
7 | Ông Sấm, mụ Sét | Cơ Ho (Xrê) | Anh - em | Thần thoại | Sự tích các vị thần |
8 | Núi Lang Biang và nguồn gốc của các dân tộc ở Việt Nam | Cơ Ho (Chil) | Anh - em | Thần thoại | Hai vợ chồng khổng lồ khai phá, kiến tạo mặt đất. |
9 | Sự tích về tổ tiên các dòng họ | Châu Mạ | Cặp Anh - em, Chị - em | Thần thoại | Hai vợ chồng khổng lồ khai phá, kiến tạo mặt đất. |
10 | Nai Krao Chao Phò | Chăm | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
11 | Sự tích sấm, sét | Chu Ru | Anh - em | Truyện cổ tích | Giải thích phong tục, tập quán... |
12 | Chang Lôcô - Phu Hay (1) | Dao | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
13 | Chang Lôcô - Phu Hay (2) | Dao | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
14 | Chang Lôcô - Phu Hay (3) | Dao | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
15 | Nguồn gốc các dòng họ dân tộc Dao | Dao | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
16 | Quả bầu vàng | Ê Đê | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
17 | Nước ngập trời | Giáy | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
18 | Bà mẹ của trăm con | Hà Nhì | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
19 | Truyện quả bầu | Hà Nhì | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
20 | Đất mẹ Na Ma À Mé | Hà Nhì | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
21 | Nguồn gốc các dân tộc | Hà Nhì | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
22 | Sự tích con người và chim gò sóng | Hà Nhì | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
23 | Hồng thủy | Hmông | Chị - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
24 | Nạn hồng thủy | Hmông | Chị - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
25 | Vườn địa đàng (2) | Hmông | Chị - em | Thần thoại | Nguồn gốc các dân tộc |
26 | Sự tích hình thành loài người | Khơ Me | 12 cặp Anh - em | Thần thoại | Nguồn gốc các dân tộc |
27 | Nguốn gốc vũ trụ và muôn loài (2) | Khơ Me | Các cặp Anh - em | Thần thoại | Nguồn gốc các dân tộc |
28 | Truyện quả bầu | Khơ Mú | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
29 | Quả bầu mẹ | Khơ Mú | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
30 | Truyện thần núi Vọng Phu | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
31 | Sự tích đá Vọng Phu | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
32 | Sự tích hòn Vọng Phu | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
33 | Hòn Vọng Phu | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
34 | Sự tích đá Bà Rầu | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
35 | Nàng Tô Thị | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
36 | Nàng Tô Thị (1) | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
37 | Nàng Tô Thị (2) | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
38 | Thai Dương thần nữ | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
39 | Vọng phu | Kinh | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
40 | Khau Lư, Vọng Phu ở về Lạng Sơn | Kinh | Anh - em | Truyền thuyết | Truyền thuyết địa danh |
41 | Truyền thuyết về xóm Gà | Kinh | Chị - em | Truyền thuyết | Truyền thuyết địa danh |
42 | Ông Đùng bà Đà | Kinh | Chị - em | Truyền thuyết | Giải thích phong tục, tập quán... |
43 | Nạn lụt | Lô Lô | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
44 | Sáng tạo loài người | Lô Lô | Anh - em (2 người nam và nữ không có cha mẹ nhưng truyện cho biết họ đều do Kếtdơ và Cagie nặn từ đất mà nên, do đó xét đến cùng vẫn là anh em) | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
45 | Hồng thủy (2) | Lô Lô | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
46 | Rum Rúp Rau I | Mạ | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
47 | Rum Rúp Rau VII | Mạ | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
48 | K’Đòng và Ka Ròng | Mạ | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
49 | Nguồn gốc các dân tộc | Mảng | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và tổ tiên của loài người |
50 | Nguồn gốc loài người | Mảng | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và tổ tiên của loài người |
51 | Nguồn gốc người Mảng | Mảng | Anh - em | Truyền thuyết | Sự hình thành dân tộc |
52 | Sự tích suối Gium Bai và sông Gium Na | Mảng | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và tổ tiên của loài người |
53 | Hai anh em Ndrok và Ok | Mơ Nông | Anh - em | Truyện cổ tích | Giải thích phong tục, tập quán... |
54 | Chuyện kể theo Mo: “Đẻ đất đẻ nước” | Mường | Anh - em | Thần thoại | Nguồn gốc các dân tộc |
55 | Đá trông chồng | Nùng | | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
56 | Nguồn gốc loài người | Phù Lá | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
57 | Sự tích người Phù Lá nói nhanh | Phù Lá | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và tổ tiên của loài người |
58 | Cơi Masrĩh Mỏq Vila | Raglai | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và tổ tiên của loài người |
59 | Nguồn gốc loài người (Kay Misiriq và Muq Pila) | Raglai | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và tổ tiên của loài người |
60 | Mở trười dựng đất | Sán Dìu | Chị - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
61 | Nguồn gốc người Tà Ôi | Tà Ôi | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
62 | Nước ngập trời | Tày | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
63 | Phú Lương Quân | Tày | Anh - em (người con trai và người con gái đều do trời sinh ra nên xét đến cùng vẫn là anh em) | Truyền thuyết | Sự hình thành dân tộc |
64 | Đá trông chồng | Tày | Anh - em | Truyện cổ tích | Sự tích đá vọng phu |
65 | Hồng thủy | Thái | Các cặp Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và tổ tiên của loài người |
66 | Hồng Thủy | Thái | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
67 | Truyện Ải Cắp - Ý Kèo | Thái | Anh - em | Thần thoại | Hai vợ chồng khổng lồ khai phá, kiến tạo mặt đất |
68 | Pù Cấp và Nhạ Ké | Thái | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và tổ tiên của loài người |
69 | Quả bầu mẹ | Thái | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
70 | Nước lụt | Thái | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người từ quả bầu |
71 | Lịch sử đất Điện biên | Thái | Anh - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
72 | Nguồn gốc các dân tộc | Xơ Đăng | Chị - em | Thần thoại | Nạn lụt và sự tái tạo loài người |
73 | Nguồn gốc loài người | Xtiêng | Anh - em (người con trai và người con gái đều hiện ra từ một tảng đá vỡ, do đó xét đến cùng vẫn là anh em) | Thần thoại | Nguồn gốc loài người |
74 | Nguồn gốc họ B’yung Đrên và họ B’yung Ro | Xtiêng | Anh - em | Thần thoại | Nguồn gốc tộc người |
2.4. Nhận xét:
Về số lượng, căn cứ vào kết quả thống kê, phân loại ở trên, có thể thấy motif loạn luân khá phổ biến trong truyện kể dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, căn cứ vào đó chúng tôi thấy được, tương quan về số lượng truyện kể chứa motif loạn luân của các dân tộc anh em không đồng đều. Loại bỏ yếu tố giống nhau về cốt truyện, chúng tôi thấy dân tộc Kinh có tới 13 truyện; dân tộc Thái có 07 truyện; dân tộc Hà Nhì có 05 truyện... nhưng rất nhiều dân tộc chỉ có 1 truyện như: Cao Lan, Chăm, Ê Đê, Xơ Đằng, Giáy, Mường, Mơ Nông, Nùng, Sán Dìu, Tà Ôi... Chắc chắn số lượng truyện mà chúng tôi khảo sát được chỉ mang tính tương đối. Nhưng có thể khẳng định, rất nhiều dân tộc có truyện đại diện cho dân tộc mình (29/54 dân tộc chiếm 54%). Điều đó nói lên tính phổ biến của vấn đề này, đồng thời cũng cho thấy những nét tương đồng về văn hóa, sự ảnh hưởng qua lại về đời sống tinh thần giữa các dân tộc, giữa các vùng miền khác nhau trên đất nước Việt Nam.
Về thể loại, motif loạn luân tập trung chủ yếu ở mảng thần thoại suy nguyên nói chung (53 truyện chiếm 72%) với nhóm truyện nổi bật lên là “Nạn lụt và sự tái tạo loài người”, ở truyền thuyết (05 truyện chiếm 7%) gắn với kiểu truyện “lí giải địa danh” đến truyện cổ tích (16 truyện chiếm 21%), motif loạn luân chủ yếu đọng lại ở kiểu truyện “đá Vọng Phu”.
Về nội dung, trong những truyện mà chúng tôi khảo sát, các tác giả dân gian đã đưa ra những cách giải thích khác nhau, bằng các hình thức hôn nhân loạn luận khác nhau: hôn nhân đồng huyết anh - em và chị - em, kèm theo đó là thái độ của cộng đồng với những hình thức hôn nhân được phản ánh trong truyện. Có thể thấy, bốn hình thức hôn nhân loạn luân cơ bản: Hôn nhân tự nguyện là cuộc hôn nhân do chính người trong cuộc đồng ý, không có sự can thiệp của những nhân vật hay yếu tố khác. Hôn nhân sau thăm dò (có yếu tố ma thuật) là cuộc hôn nhân chỉ được tiến hành sau khi đã trải qua những “phép thử” do thần linh hoặc nhân vật khác chỉ bảo và hướng dẫn. Hôn nhân do nhầm lẫn là cuộc hôn nhân được tiến hành sau một thời gian dài xa cách của hai người trong cuộc. Còn, hôn nhân bị cấm đoán là cuộc hôn nhân không được cộng đồng chấp nhận, nếu vi phạm sẽ bị xử phạt rất nặng.
Tóm lại, motif loạn luân là dấu vết của một thời kì hôn nhân huyết thống còn phổ biến. Nó thể hiện một cách sâu sắc cách nhìn của dân gian về các sự kiện của đời sống xã hội. Qua thời gian, những dạng thức của hình tượng, những ý nghĩa của motif cũng đã thay đổi với quan niệm khác nhau về hôn nhân trong lịch sử. Ở thần thoại, motif loạn luân tôn vinh hành động lấy nhau, để duy trì nòi giống với chủ đề giải thích nguồn gốc tộc người. Thì, bước sang truyện cổ tích, motif này có ý nghĩa phê phán, lên án những hành động sai lầm của con người.
Tài liệu tham khảo chính:
1. Trần Thị An, Nghiên cứu văn học dân gian dưới góc độ Type và Motif - những khả thủ và bất cập, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (7), H.2008.
2. Nguyễn Tấn Đắc, Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif, Nxb Khoa học Xã hội, H. 2001.
3. Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, H.1974.
4. E.B.Taylor, Văn hóa nguyên thủy, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H.2000.
5. E.M.Meletinsky. Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn, Song Mộc dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.2004.
6. Đinh Gia Khánh (Chủ biên), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.2000.
7. Phan Đăng Nhật, Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (Trước Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb Văn hóa, H.1981.
8. Võ Quang Nhơn, Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.1983.
Tác giả: Đặng Thế Anh (CĐSPLS), Phạm Thị Hà (Trường CĐKT Lý Tự Trọng Tp HCM)