Tuyển sinh 2021
Tuyển sinh 2021

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng và an ninh các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Thứ hai - 09/05/2016 22:02
Lạng Sơn là tỉnh miền núi, nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam. Địa hình phổ biến là núi thấp và đồi, ít núi trung bình và không có núi cao. Độ cao trung bình là 252m so với mực nước biển. Theo kết quả tổng quan kinh tế - xã hội, ước tính dân số của tỉnh có khoảng 831 nghìn người với 7 dân tộc anh em sinh sống. Lạng Sơn đã phát triển được hệ thống giáo dục đào tạo hoàn chỉnh từ giáo dục mầm non đến phổ thông trung học, từ giáo dục từ xa đến trung học chuyên nghiệp, hướng nghiệp dạy nghề, tiểu học bán trú đến phổ thông dân tộc nội trú; từ trường công lập, dân lập đến trường tư thục... Các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn tiếp tục được duy trì củng cố và phát triển, chất lượng đào tạo đã được nâng lên, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Tỉnh Lạng Sơn hiện có 06 trường chuyên nghiệp, đó là: trường Cao đẳng nghề Công nghệ và Nông lâm Đông Bắc, trường Cao đẳng Sư phạm, trường Cao đẳng Y tế,  trường Cao đẳng Nghề Lạng Sơn, trường Trung cấp Kinh tế – Kỹ thuật và trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật; trong đó 05 trường trực thuộc tỉnh, 01 trường trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tổng số học sinh, sinh viên (HSSV) hiện đang theo học tại các nhà trường là 10.106 HSSV([1]). Nhiệm vụ của các trường là đào tạo đa cấp, đa ngành, đa nghề và bồi dưỡng nguồn nhân lực bậc trung cấp, cao đẳng chuyên nghiệp; sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và liên kết đào tạo đại học cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cho đất nước.
Theo số liệu báo cáo thống kê của các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn tính đến năm học 2014 – 2015, số lượng giáo viên đã qua đào tạo bồi dưỡng và đủ điều kiện tham gia giảng dạy giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQP&AN) theo quy định là 03 người (Cao đẳng Sư phạm 02 giáo viên, Cao đẳng Y tế 01 giáo viên), đang tham gia khóa đào tạo bồi dưỡng là 01 người (Cao đẳng Y tế). Tất cả số giáo viên đó chủ yếu qua đào tạo bồi dưỡng 6 tháng, được cấp chứng chỉ đủ điều kiện để giảng dạy GDQP&AN. Đội ngũ giáo viên GDQP&AN hiện nay của các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh chưa đảm bảo được các yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng.
Về môn học GDQP&AN, hiện nay các nhà trường đang thực hiện theo hai chương trình. Đối với hệ trung cấp chuyên nghiệp thực hiện theo Quyết định số 80/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, có tổng thời lượng là 75 tiết ( tương đương 5 đơn vị học trình). Còn với hệ cao đẳng chính quy thực hiện theo Thông tư số 31/2012/TT-BGDĐT ngày 12/9/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, có tổng thời lượng là 165 tiết (tương đương 11 đơn vị học trình). Với nhiều hệ đào tạo, bộ môn GDQP&AN thực hiện đồng thời hai chương trình đào tạo đã đặt ra cho các nhà trường những yêu cầu không chỉ phải đáp ứng về đội ngũ giáo viên mà còn bao gồm cả về cơ sở vật chất và các điều kiện khác để phục vụ công tác giảng dạy và học tập.
Để thực hiện chương trình môn học GDQP&AN cho HSSV đảm bảo chất lượng, các nhà trường đã phối hợp với Ban chỉ huy (BCH) quân sự, công an địa phương hỗ trợ lên lớp các nội dung theo quy định. Giáo viên quân sự, công an tham gia giảng dạy cơ bản được đào tạo từ các nhà trường quân sự, công an; có lập trường chính trị kiên định vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn quân sự cơ bản và kinh nghiệm thực tế… Mặc dù vậy, vẫn còn một số bất cập: năng lực sư phạm của một số giáo viên còn ít nhiều hạn chế; chưa nắm bắt đầy đủ các đối tượng người học nên chưa có phương pháp giảng dạy phù hợp…
Lý luận và thực tiễn giáo dục đã khẳng định: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục” ([2]). Nhiệm vụ của giáo viên là giảng dạy và nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ, đảm bảo chất lượng đào tạo. Vì vậy muốn nâng cao chất lượng đào tạo thì điều kiện tiên quyết là phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Từ những nhìn nhận, đánh giá nghiêm túc trên, cho thấy việc đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn học GDQP&AN nói chung, củng cố nâng cao năng lực giảng dạy của đội ngũ giáo viên GDQP&AN nói riêng là một yêu cầu cần thiết hiện nay.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Về phía lãnh đạo các nhà trường
Thứ nhất, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác GDQP&AN. Việc quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng mức đến công tác GDQP&AN có ý nghĩa chiến lược, quyết định đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, tiếp tục cử đi đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên GDQP&AN. Trên thực tế hiện nay, số lượng giáo viên GDQP&AN chưa đảm bảo được các yêu cầu về số lượng cũng chất lượng theo quy định. Tại Quyết định số 607/QĐ-TTg ngày 24/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án đào tạo giáo viên GDQP&AN của các cơ sở giáo dục đại học đến năm 2020, các nhà trường phải đảm bảo được 70% nhu cầu giáo viên GDQP&AN. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi các nhà trường phải xây dựng lộ trình, kế hoạch hành động để đảm bảo được số lượng theo yêu cầu. Song song với đó là công tác bồi dưỡng, tham gia các khóa tập huấn cũng cần được các nhà trường thường xuyên quan tâm, cụ thể:
- Đội ngũ giáo viên GDQP&AN phải thường xuyên bồi dưỡng kiến thức sư phạm và các kỹ năng thực hành giảng dạy, tập huấn quy chế, quy định, văn bản pháp luật liên quan, trong đó chú trọng đổi mới về phương pháp dạy và học. Tập trung bồi dưỡng một cách toàn diện, cả về phẩm chất và năng lực chỉ huy, quản lý, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, để mỗi giáo viên vừa là tấm gương mẫu mực của người thầy, vừa là hiện thân về những phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ cho HSSV noi theo.
- Mở các lớp bồi dưỡng về kiến thức tin học, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quân sự, công an để gửi giáo viên đi học tập thực tế, dự giờ, tập huấn chuyên môn, giao lưu học hỏi kinh nghiệm nâng cao năng lực giảng dạy của giáo viên.
- Giám sát việc thực hiện tự bồi dưỡng của giáo viên, đồng thời động viên giáo viên tự bồi dưỡng, cần sử dụng hiệu quả các quy định về tự bồi dưỡng của giáo viên như một chế tài để đánh giá, xếp loại công chức, viên chức.
          Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Khi thực hiện công tác GDQP&AN các nhà trường cần xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể. Trong quá trình thực hiện có kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm. Tập trung thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chương trình, đổi mới phương pháp dạy học, chương trình chi tiết, bài giảng, kế hoạch dạy học. Qua thanh tra kiểm tra, các bộ phận liên quan phải nghiêm túc rút kinh nghiệm, có các giải pháp cụ thể trong việc cập nhật văn bản mới, tăng cường công tác tham mưu, phối hợp tổ chức triển khai thực hiện, quản lý, lưu giữ hồ sơ tài liệu…một cách khoa học, chính xác, đầy đủ theo đúng quy định.
          Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất, trang, thiết bị phục vụ cho công tác GDQP&AN.
Thứ năm, xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, dân chủ, thân thiện, có sự sẻ chia trách nhiệm. Môi trường tốt sẽ thu hút, động viên được đội ngũ giáo viên phấn đấu hoàn thiện mình. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của đội ngũ giáo viên để giáo viên an tâm công tác, tập trung vào nhiệm vụ chuyên môn của mình.
Về phía giáo viên
Thứ nhất, quán triệt và giữ vững lập trường, tư tưởng chính trị, ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức nhà giáo và nêu cao tinh thần trách nhiệm.
Với mỗi GV GDQP&AN cần quán triệt sâu sắc, tổ chức nghiên cứu học tập Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GDQP&AN trong tình hình mới; Luật giáo GDQP&AN ngày 19/6/2013; Các văn bản hướng dẫn của Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư lệnh Quân khu; các Nghị quyết của Tỉnh ủy, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Sở Giáo dục và Đào tạo… về nhiệm vụ GDQP&AN hàng năm. Phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ vững phẩm chất của người cán bộ, đạo đức nhà giáo. Xây dựng, duy trì kỷ cương nề nếp trong dạy và học. Phát huy tinh thần đoàn kết, luôn có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm. Chấp hành nghiêm túc theo hướng tích cực, từng bước tự hoàn thiện bản thân để thực sự là người thầy, người chỉ huy và là tấm gương sáng để HSSV noi theo.
Thứ hai, tự bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Với chức năng dạy học, giáo viên có nhiệm vụ trang bị cho HSSV những tri thức khoa học hiện đại, kỹ năng, kỹ xảo về một lĩnh vực khoa học nhất định; phát triển trí tuệ và năng lực hoạt động trí tuệ, tư duy sáng tạo, trang bị phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp tự học, tiếp thu cái mới, hình thành thế giới quan khoa học, các chuẩn mực xã hội và các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Do vậy, đòi hỏi người giáo viên trước hết phải có phẩm chất, năng lực của một nhà giáo, có nhân cách tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức lối sống trong sáng, lành mạnh, yêu nghề, yêu thương học trò, công bằng, tôn trọng nhân cách của người học. Đồng thời, giáo viên phải có năng lực chuyên môn tốt, có kiến thức chuyên sâu, làm chủ được tri thức, ham hiểu biết tri thức mới và phải không ngừng tìm tòi, học hỏi để nâng cao trình độ, kỹ năng. Bên cạnh đó, giáo viên phải nắm vững kiến thức và kỹ năng về dạy và học, có phương pháp luận, kỹ thuật dạy và học nói chung và trong giảng dạy môn học GDQP&AN nói riêng.
Thứ ba, đổi mới phương pháp, hình thức và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học. Vì vậy bên cạnh những phương pháp chung có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau thì việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn. Các phương pháp dạy học đặc thù được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn.
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các nhà trường đang từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học. Vì thế rất cần được khai thác một cách hợp lý.
Để đổi mới phương pháp giảng dạy có hiệu quả, giáo viên là yếu tố quyết định hàng đầu trong việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy. Với sự nhận thức đúng đắn, với tinh thần trách nhiệm và sự quyết tâm cao, kỹ năng sử dụng thiết bị dạy học và tổ chức hướng dẫn HSSV học tập tốt là những phẩm chất cần thiết của người giáo viên trong nhà trường.
Thứ , đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học (NCKH), gắn NCKH với đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy. Đội ngũ giáo viên được biết đến như một lực lượng cán bộ học thuật có trình độ, chất lượng cao; bởi vậy, ngoài việc dạy học, giáo viên phải chủ động tham gia NCKH để bổ sung, cập nhật kiến thức, nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo; khuyến khích, hướng dẫn, rèn luyện cho HSSV phương pháp học thông qua nghiên cứu, phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn. Để làm được điều đó, người giáo viên cũng phải biết nghiên cứu, tìm tòi, giải thích và dự báo các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Tóm lại, chất lượng của đội ngũ giáo viên chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, từ chủ quan như năng lực, trình độ chuyên môn, phương pháp giảng dạy, kỹ năng sư phạm, phẩm chất đạo đức, ý chí phấn đấu vươn lên của từng cá nhân cho đến các điều kiện, yếu tố khách quan như môi trường làm việc, công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng cũng như các chế độ, chính sách ưu đãi và cơ chế kiểm tra, đánh giá ...
 
Tài liệu tham khảo
[1] Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GDQP&AN trong tình hình mới.
[2] Luật GDQP&AN ngày 19/6/2013.
[3] Luật Giáo dục năm 2005, Điều 15.
[4] Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về GDQP&AN.
[5] Quyết định số 80/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Chương trình GDQP&AN trình độ trung cấp chuyên nghiệp.
[6] Quyết định số 607/QĐ-TTg ngày 24/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án đào tạo GV GDQP&AN của các cơ sở giáo dục đại học đến năm 2020.
[7] Thông tư số 31/2012/TT-BGDĐT ngày 12/9/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Chương trình GDQP&AN trình độ Đại học và Cao đẳng.
[8] Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 Quy định tiêu chuẩn chức danh viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học.


 

Tác giả bài viết: Ninh Văn Hưng, Hoàng Văn Linh

Nguồn tin: Phòng Quản lí - Đào tạo

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Array
(
    [type] => 2
    [message] => file_put_contents(/13-11-2024_f20720bc81b931824922d73eaf3dd225.log): failed to open stream: Permission denied
    [file] => /var/www/nvlce2016/vendor/vinades/nukeviet/Core/Error.php
    [line] => 593
)